Dự báo sản lượng mạnh mẽ trong năm 2026-2027
Trái ngược với sản lượng yếu kém và lợi nhuận trì trệ gây thất vọng cho thị trường từ FY23, GAS đang đảo ngược tình trạng thiếu hụt nguồn cung kể từ năm 2026 trở đi. Việc triển khai đúng hạn 2 nhà máy điện là NT3 & NT4 (Tháng 11-12/2025) sẽ đảm bảo tăng trưởng sản lượng Khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) cho GAS, trong khi nguồn cung khí nội địa mới dự kiến đi vào hoạt động đúng tiến độ sẽ tạo ra sự cải thiện đáng kể cho sản lượng khí khô của GAS.
Trong ngắn hạn, sản lượng điện khí đốt đã tăng đáng kể trong 5 tháng qua, cho thấy một Quý 4/2025 tích cực sắp tới. Chúng tôi kỳ vọng Lợi nhuận sau thuế sau lợi ích cổ đông thiểu số tăng trưởng 20% so với cùng kỳ năm trước cho FY26E (loại trừ các khoản đảo ngược một lần trong năm 2025).
Tiêu thụ LNG của NT3 & NT4 thúc đẩy sản lượng cho năm 2026
Chúng tôi kỳ vọng sản lượng khí khô của GAS tăng 20%, dựa trên đóng góp cả năm của NT3 & NT4, các nhà máy này sẽ bắt đầu vận hành thương mại lần lượt từ tháng 11/2025 và tháng 12/2025. Giả định tỷ lệ sử dụng 45%, tiêu thụ LNG từ 2 nhà máy sẽ bổ sung 1,14 tỷ m3 (bcm) khí khô tương đương, trên tổng sản lượng khí khô 2025 của GAS là 6,2 tỷ m3. Con số này, cộng thêm khoảng 420 triệu m3 (mcm) khí khô từ Sư Tử Trắng 2B (khai thác khí lần đầu vào Quý 3/2026) và Thiên Nga – Hải Âu (khai thác khí lần đầu vào Quý 4/2026), sẽ nâng tổng sản lượng khí khô FY26E của GAS lên 7,5 tỷ m3.
Nguồn khí nội địa lớn giúp giảm bớt lo ngại thiếu hụt
Được hỗ trợ bởi các cải cách quy định quan trọng trong ngành dầu khí—đặc biệt là Luật Dầu khí 2022 và Nghị quyết 66/NQ-CP sau đó—ngành công nghiệp thượng nguồn dầu khí Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc thúc đẩy phát triển các mỏ lớn. Từ năm 2027 trở đi, nguồn cung lớn từ các mỏ khí nội địa, đặc biệt là Sư Tử Trắng 2B (Quý 3/2026), Thiên Nga – Hải Âu (Quý 4/2026), siêu dự án Lô B (2028) và Nam Du – U Minh (2028), sẽ tăng đáng kể khả năng cung cấp và sản lượng bán khí khô của GAS. Lịch trình hiện tại cho thấy GAS có thể đưa sản lượng cung cấp khí khô nội địa trở lại mức 10 tỷ m3, tương đương giai đoạn 2013-2016 (so với mức 5,5 tỷ m3 hiện tại).
Tái định giá nhờ triển vọng sản lượng tốt hơn và Rủi ro
Chúng tôi và nâng giá mục tiêu lên 86.000 VND, dựa trên P/E mục tiêu cao hơn là 16 lần (cao hơn 1 độ lệch chuẩn so với mức trung bình 6 năm) để phản ánh tầm nhìn rõ ràng hơn và triển vọng phục hồi sản lượng tốt hơn của công ty. Rủi ro đối với khuyến nghị của chúng tôi là tỷ lệ sử dụng nhà máy điện thấp hơn, đặc biệt là NT3 và NT4, vốn sử dụng LNG—một loại nhiên liệu đắt đỏ cho việc sản xuất điện. Tuy nhiên, cũng có yếu tố tăng trưởng đến từ chính sách của Chính phủ nhằm hỗ trợ LNG trong giai đoạn đầu, được thể hiện qua dự thảo nghị quyết gần đây gợi ý tăng cường tăng khối lượng hợp đồng tối thiểu cho các nhà máy điện LNG từ 65% lên 75%.
Báo cáo này là sản phẩm của Maybank Investment Bank nhằm cung cấp thông tin và những ý kiến chỉ dành cho mục đích tham khảo. Báo cáo không có ý định và mục đích cấu thành những lời khuyên tài chính, đầu tư, giao dịch hay bất kỳ lời khuyên nào khác. Báo cáo không được phân tích như một sự xúi giục hay một yêu cầu mua hay bán bất kỳ chứng khoán nào. Thông tin và những lời bình luận không có ý tán thành hay khuyến nghị cho bất kỳ loại chứng khoán hay những phương tiện đầu tư khác.
Báo cáo này dựa vào những thông tin đại chúng. Maybank Investment Bank cố gắng trong phạm vi có thể sử dụng thông tin đầy đủ và đáng tin cậy, nhưng chúng tôi không khẳng định những thông tin đưa ra là hoàn toàn chính xác và đầy đủ. Người đọc cũng nên lưu ý rằng ngoại trừ điều ngược lại được nêu ra, Maybank Investment Bank và bên cung cấp dữ liệu thứ 3 không đảm bảo về tính chính xác, đầy đủ và kịp thời của dữ liệu mà chúng tôi cung cấp và sẽ không chịu trách nhiệm cho bất cứ sự thiệt hại nào liên quan đến việc sử dụng những dữ liệu đó. (Nguồn MSVN)
















